Xem trước bản chỉnh sửa này: 00:07 Ngày 30 tháng 10 năm 2018 (#6) bởi DSHUYNHPHUONGTHAO

Bảng tin DLS 2018 - Quý 2

1. PHẢN ỨNG CÓ HẠI CỦA THUỐC (ADR):

A. Tổng kết công tác báo cáo ADR:

Quý 2-2018 ghi nhận có 16 báo cáo ADR xảy ra ở 10 khoa (theo bảng). Trong đó khoa Nhiễm B (3 ca), các khoa còn lại có báo cáo nhưng ít, tất cả đều được xử trí kịp thời. So với Quý 2-2017 (29 báo cáo), số lượng báo cáo ADR Quý 2-2018 (16 báo cáo) ít hơn đáng kể, do đó đề nghị các khoa lâm sàng tăng cường giám sát, theo dõi, xử trí và báo cáo tác dụng phụ không mong muốn (ADR) gửi về khoa Dược.

H1.png

B. Phản hồi các khoa lâm sàng về chất lượng thuốc:

Quý 2-2018 chưa ghi nhận phản hồi của các khoa về chất lượng thuốc

2. THÔNG TIN THUỐC, CẢNH GIÁC DƯỢC:

Xem phần Thông tin thuốc

3. KHUYẾN CÁO DƯỢC LÂM SÀNG QUÝ 1-2018

3.1.Tổng kết công tác giám sát và can thiệp dược lâm sàng:

Công tác giám sát được thực hiện trên 211 HSBA nội trú và 1.594 toa thuốc ngoại trú. Ngoài ra, đơn vị dược lâm sàng cũng thực hiện 59 (trong đó có 10 ca hội chẩn qua điện thoại) trường hợp hội ý/hội chẩn với các khoa lâm sàng trong quá trình điều trị. Chủ yếu là hội chẩn về liều kháng sinh (đặc biệt là TDM Vancomycin 48/59 trường hợp), phối hợp kháng sinh và tư vấn thông tin thuốc. TDM Aminoglycosid, tiến hành hội chẩn 03 trường hợp Amikacin.

Bên cạnh đó, đơn vị dược lâm sàng thực hiện 260/1706 (khoảng 14%, cao hơn quý 1 là 9%) can thiệp trong quá trình điều trị thuốc để kịp thời hỗ trợ công tác điều trị của bác sỹ. Trong 260 can thiệp, có 207 (80% cao hơn quý 1 là 63%) trường hợp được thực hiện kịp thời chủ yếu là các can thiệp chỉnh liều và thông tin. Và cũng có 250 (96.2% thấp hợn so với quý 1 là 97.5%) trường hợp được sự thống nhất ý kiến từ cả 2 phía bác sỹ điều trị và dược sỹ lâm sàng. Tuy nhiên, có khoảng 3.8% số trường hợp chưa có sự đồng ý hoặc đồng ý một phần từ 2 phía bác sỹ và dược sỹ, chủ yếu liên quan đến việc lựa chọn thuốc trong điều trị (liều ivermectin cao, sử dụng 2-3 loại thuốc long đàm và 4 loại thuốc kháng histamin H1 điều trị ngứa không xác định hoặc ngứa do nhiễm giun sán). Những nội dung chưa thống nhất giữa dược sỹ và bác sỹ đã được hội đồng thuốc đưa ra khuyến cáo cụ thể qua các kỳ họp giao ban hàng thàng, đề nghị các bác sỹ tuân thủ khuyến cáo và quy định của bệnh viện khi kê toa.

H2.png

3.2. Kết quả tiêu chí giám sát hồ sơ bệnh án, đơn thuốc và can thiệp DLS:

Toàn bệnh viện đạt 11 tiêu chí về sử dụng thuốc khoảng 94% trở lên (giảm nhẹ so với quý 1 -2018 (95%)). Tuy nhiên, vẫn còn một số khoa đạt vài tiêu chí còn thấp cần khắc phục (ghi y lệnh chưa đúng, thiếu hoặc phân tầng không hợp lý nhóm nguy cơ bệnh nhân, chỉ định những thuốc không phù hợp (CCĐ), chưa hiệu chỉnh liều thuốc hợp lý).

H3.bmp
H4.bmp

Một số tiêu chí các khoa cần lưu ý để nâng cao và cải thiện hơn trong thời gian tới: chỉ định kháng sinh chưa đúng quy định (một số khoa: nhiễm A, B, E, nhi A, B thiếu hoặc phân tầng nhóm nguy cơ bệnh nhân chưa hợp lý), duyệt toa kháng sinh hạn chế không kịp thời và đúng thời gian quy định, liều thuốc (chủ yếu là liều ivermectin), ghi y lệnh thuốc chưa đúng quy định (lỗi thường gặp là sửa y lệnh nhưng BS không ký tên, nhầm lẫn trong việc sao chép tên thuốc, hàm lượng từ y lệnh BS ở phòng khám yêu cầu), lựa chọn thuốc chưa hợp lý về dạng bào chế và hướng dẫn điều trị, phối hợp thuốc chưa hợp lý (dùng dạng thuốc uống cho trẻ em < 2 tuổi, dùng cùng lúc 4 thuốc kháng histamine H1, 2-3 loại thuốc long đàm (KKB, KKBYC).

Lưu ý, trong quý 2-2018 có những trường hợp kê toa có thuốc chống chỉ định (ivermectin, vitamin A, loratidin, levocetirizin). Khoa khám bệnh và KKB theo yêu cầu cần phải lưu ý tăng cường kiểm soát vấn đề kê toa của bác sỹ đảm bảo tuân thủ hướng dẫn và khuyến cáo của hội đồng thuốc và bệnh viên. Các dược sỹ nhà thuốc và dược sỹ lâm sàng tăng cường kiểm toa và hỗ trợ các thông tin cho bác sỹ đảm bảo kê toa đúng theo hướng dẫn và khuyến cáo của bệnh viện.

3.2. Khuyến cáo dược lâm sàng:

Phân tầng nhóm nguy cơ bệnh nhân trước khi sử dụng kháng sinh và làm phiếu kháng sinh hạn chế đã ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên còn một số hạn chế cần cải thiện: vẫn còn trường hợp chưa phân tầng nhóm nguy cơ, phân tầng không hợp lý hoặc phân tầng hợp lý nhưng dùng KS không theo hướng dẫn (chưa lưu ý các đã kháng sinh ở tuyến trước nên phân tầng chưa hợp lý) -> lựa chọn kháng sinh ban đầu chưa hợp lý và lên thang kháng sinh sau khi dùng thuốc không cải thiện).

Khuyến cáo của Hội đồng thuốc

Khuyến cáo về liều điều trị:

Pha và truyền thuốc; cách dùng thuốc:

4. CHUYÊN ĐỀ: NHÂN VIÊN Y TẾ VÀ AN TOÀN TRONG SỬ DỤNG THUỐC

Thách thức hàng đầu của nhân viên y tế là đảm bảo cung cấp các dịch vụ sức khỏe an toàn trong môi trường làm việc nhiều áp lực vì nguyên tắc hàng đầu trong y khoa là “KHÔNG GÂY HẠI”. Và việc ngăn chặn và giảm thiểu sai sót liên quan đến thuốc cũng trở thành một trong những mục tiêu quan trọng trong chính sách an toàn thuốc của mỗi quốc gia. Vì vậy, đảm bảo an toàn trong quản lý và sử dụng thuốc là một trong những vấn đề trọng tâm trong đảm bảo an toàn người bệnh mà tất cả các bệnh viện cần phải thực hiện.

Nhân viên y tế bao gồm bác sỹ, điều dưỡng, dược sỹ, hộ lý cần phải hiểu rõ và thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn và giảm thiểu các sai sót liên quan đến thuốc. Trong nhiệm vụ này, khoa dược, Ban An toàn người bệnh, Hội đồng thuốc và điều trị là nơi chủ chốt, đưa ra các khuyến cáo, hướng dẫn, quy trình, biện pháp nhằm đảm bảo quy trình sử dụng thuốc được thực hiện an toàn và hiệu quả. Trong thời gian gần đây, ngành y tế đã có những sự cố y khoa nghiêm trọng liên quan đến sử dụng thuốc như: phát nhầm thuốc dưỡng thai thành thuốc phá thai, dùng KCl dạng uống thành dạng tiêm… đã và đang cảnh báo vấn đề quan trọng cấp thiết của việc đảm bảo an toàn trong sử dụng thuốc. Chính vì vậy, chuyên đề này là nội dung hết sức cấp thiết nhằm cung cấp thông tin và nâng cao ý thức thực hiện an toàn trong sử dụng thuốc cho nhân viên y tế.

4.1. Một số thuật ngữ

Hội đồng Điều phối Quốc gia Hoa Kì về Báo cáo và phòng tránh sai sót liên quan đến thuốc định nghĩa: Sai sót liên quan đến thuốc (Medication error – ME) là bất kì biến cố có thể phòng tránh nào có khả năng gây ra hoặc dẫn đến việc sử dụng thuốc không hợp lý, hoặc gây hại cho bệnh nhân trong khi thuốc được kiểm soát bởi nhân viên y tế, bệnh nhân, hoặc người tiêu dùng. Các biến cố có thể liên quan quy trình và hệ thống bao gồm: kê đơn và quá trình chuyển giao đơn thuốc; ghi nhãn, đóng gói và danh pháp; pha chế, cấp phát và phân phối; quản lý, giám sát và sử dụng thuốc trên người bệnh”.

Theo định nghĩa của Cơ quan Dược phẩm Châu Âu, ME là bất cứ sai sót không chủ đích nào trong quá trình kê đơn, phân phối hoặc sử dụng sản phẩm y tế dưới sự kiểm soát của nhân viên y tế, bệnh nhân hoặc người tiêu dùng.

Biến cố bất lợi của thuốc (Adverse Drug Event – ADE, hay Adverse Event – AE) là những tổn thương xảy ra trên bệnh nhân mà nguyên nhân có thể do thuốc gây ra hoặc thiếu thuốc cần thiết cho bệnh nhân. Phản ứng có hại của thuốc (Adverse Drug Reaction - ADR) theo WHO là những tác dụng không mong muốc có hại đến sức khỏe, không định trước xuất hiện khi dùng thuốc ở liều bình thường.

4.2. Các nghiên cứu về sai sót liên quan đến thuốc.

Theo một nghiên cứu năm 2013, ME trở thành nguyên nhân gây tử vong thứ ba, chỉ xếp sau bệnh tim mạch và ung thư tại Mỹ.

H5.png

Một nghiên cứu khác tại Úc măm 2002 cho thấy tỷ lệ phần trăm ME xảy ra trong quy trình sử dụng thuốc. Theo nghiên cứu này thì khâu thường xảy ra sai sót là khi thực hiện thuốc (5-20%) liên quan đến công tác của điều dưỡng và khi kê toa (2.5-5.4%) liên quan đến công tác của bác sỹ.

H6.png

Bên cạnh cũng có những nghiên cứu phản ánh vấn đề sai sót liên quan đến thuốc và điều dưỡng. Điển hình là nghiên cứu của tổ chức The American Nurses Association (ANA) ( www.nursingworld.org) báo cáo kết quả từ một khảo sát trên 1039 điều dưỡng vào năm 2007 về “Những sai sót y khoa trong thực hiện tiêm thuốc” thì có khoảng 97% điều dưỡng lo lắng về sai sót liên quan đến thuốc và 68% điều dưỡng tin rằng có thể giảm các sai sót khi tiêm thuốc bằng nhãn ghi chú trên ống tiêm. Nghiên cứu cũng cho thấy xảy ở giai đoạn sao chép y lệnh là 47% (cao nhất), 25% khi chuẩn bị thuốc và 23% khi thực hiện thuốc. Một trong những yếu tố ảnh hưởng nhiều đến việc sai sót này của điều dưỡng là áp lực công việc (88%), kê không đúng/không rõ ràng (76-81%).

Nghiên cứu về ME trên trẻ em cũng cho thấy giai đoạn thường xảy ra ME là giai đoạn kê đơn (78%), thực hiện thuốc (12.8%).

H7.png

Một nghiên cứu điển hình của Leape và đồng nghiệp về ME được thực hiện từ năm 1995, đã sớm cho thấy nguy cơ ME xảy ra từng giai đoạn trong quy trình sử dụng thuốc: kê đơn (39% gồm các chọn thuốc không hợp lý, kê đơn không phù hợp, không hiệu quả (không đúng số lượng, liều dùng, nồng độ, hàm lượng, số lần dùng thuốc, đường dùng, hoặc hướng dẫn sử dụng; kê đơn thiếu thuốc hoặc thừa thuốc, lỗi viết đơn thuốc, bao gồm cả chữ viết khó đọc), thực hiện y lệnh (38% gồm sai về người bệnh, thuốc, liều, đường dùng và thời gian dùng). Như vậy qua các nghiên cứu cho thấy mặc dù thuốc thuộc sự quản lý của khoa dược nhưng những ME có thể xảy ra ở bất kỳ giai đoạn nào trong quy trình sử dụng thuốc và tỷ lệ cao nhất ở 2 giai đoạn: kê đơn và thực hiện thuốc. Và hai giai đoạn này liên quan trực tiếp đến bác sỹ và điều dưỡng. Vì vậy, các khuyến cáo nhằm đảm bảo an toàn trong sử dụng thuốc sẽ tập trung hỗ trợ vào 2 giai đoạn này cũng như 2 đối tượng cực kỳ quan trọng là bác sỹ và điều dưỡng.

H8.png

4.3. Vai trò/nhiệm vụ của nhân viên y tế trong an toàn sử dụng thuốc

Bác sỹ:

Điều dưỡng: - Điều dưỡng có vai trò rất quan trọng trong công tác chăm sóc và điều trị bệnh nhân  thực hiện y lệnh thuốc

Nhân viên dược - dược sỹ:

Lãnh đạo bệnh viện:

4.4. Một số sai sót liên quan đến thuốc tại bệnh viện – Các biện pháp hỗ trợ từ khoa Dược nhằm giảm thiểu sai sót liên quan đến thuốc

Trong năm 2017, khoa Dược đã ghi nhận một số sai sót chính trong vấn đề sử dụng thuốc.

H9.png

Các biện pháp hỗ trợ từ khoa Dược nhằm giảm thiểu sai sót liên quan đến thuốc

4.5. Kết luận

An toàn trong sử dụng thuốc là nhiệm vụ quan trọng cấp thiết của tất cả các bệnh viện nhằm đảm bảo chính sách an toàn trong y tế của mỗi quốc gia. Để hoàn thành nhiệm vụ cần sự phối hợp hành động đồng bộ của tất cả các nhân viên y tế gồm bác sỹ, điều dưỡng, nhân viên khoa dược, hộ lý và đồng thời không thể thiếu vai trò quản lý của lãnh đạo bệnh viện. Chuyên đề muốn góp một phần nhỏ để nâng cao tầm quan trọng cũng như ý thức về việc sử dụng thuốc an toàn trong nhân viên y tế. Nếu mỗi nhân viên y tế có ý thức về việc giảm thiểu sai sót sẽ tạo thành hành động không nhỏ cho công cuộc bảo đảm nguyên tắc hàng đầu trong y khoa là “KHÔNG GÂY HẠI” cho người bệnh.

Tài liệu tham khảo

  1. http://www.ismp.org/tools/institutionalhighAlert.asp

  2. J Res Pharm Pract. 2013 Jan-Mar; 2(1): 18–23.

  3. Iran J Nurs Midwifery Res. 2013 May-Jun; 18(3): 228–231.

  4. Mohammad Ali Cheragi, Human Manoocheri, Esmaeil Mohammadnejad, and Syyedeh R. Ehsani, Types and causes of medication errors from nurse's viewpoint, 2009.

  5. An toàn trong sử dụng thuốc, Sở Y Tế TP Hồ Chí Minh , 2015