Điểm tin cảnh giác dược 06/03/2020

Corticosteroid

Không sử dụng thường quy corticosteroid trong điều trị viêm phổi mắc phải tại cộng đồng (CAP).

Hướng dẫn điều trị mới của ATS/IDSA khuyến cáo không nên sử dụng corticosteroid như một thuốc bổ trợ trong điều trị CAP và viêm phổi do virus cúm, ngoại trừ bệnh nhân có các tình trạng bệnh lý khác cần sử dụng thuốc này như hen phế quản, COPD hoặc bệnh tự miễn.

Dữ liệu về tác dụng bổ trợ của corticosteroid trong việc cải thiện tình trạng lâm sàng ở bệnh nhân CAP nặng còn chưa thống nhất. Cho đến khi có các bằng chứng rõ ràng hơn, không nên sử dụng thường quy thuốc này. Tuy nhiên, nên sử dụng corticosteroid trong các trường hợp CAP có sốc nhiễm trùng kháng trị. Chưa có bằng chứng chứng minh tác dụng của corticosteroid ở bệnh nhân CAP nhẹ đến trung bình.

Corticosteroid làm tăng nguy cơ tăng đường huyết, có liên quan đến tăng tỷ lệ xuất huyết, nhiễm trùng thứ phát và tái nhập viện.

Điểm tin cảnh giác dược 10/03/2020

Mecasermin

(Thuốc điều trị chậm phát triển ở trẻ do thiếu IGF-1 nguyên phát nghiêm trọng)

Cơ quan quản lý dược phẩm Pháp (ANSM): Mở rộng chống chỉ định của mecasermin (biệt dược gốc Increlex) do nguy cơ xuất hiện khối u lành tính hoặc ác tính

Mecasermin là yếu tố tăng trưởng giống insulin 1 (IGF-1) tái tổ hợp, được sử dụng điều trị cho trẻ em từ 2-18 tuổi chậm phát triển do cơ thể không sản xuất đủ IGF-1.

Do sự xuất hiện hiếm gặp của khối u đã được ghi nhận cụ thể trong quá trình điều trị mecasermin với liều cao hơn liều khuyến cáo hoặc điều trị các bệnh khác không phải thiếu IGF-1 nguyên phát, chống chỉ định được mở rộng cho tất cả các bệnh nhân mắc các bệnh, tình trạng hoặc tiền sử làm tăng nguy cơ xuất hiện của khối u.

Thông tin cho cán bộ y tế:

  • Chỉ nên được kê đơn để điều trị thiếu hụt IGF-1 nguyên phát nghiêm trọng.

  • Không kê đơn cho những bệnh nhân có chẩn đoán hoặc nghi ngờ có khối u hoặc bất kỳ tình trạng hoặc tiền sử nào làm tăng nguy cơ xuất hiện khối u lành tính hoặc ác tính.

  • Không sử dụng vượt quá liều tối đa: 0,12 mg/kg x 2 lần/ngày.

  • Trong trường hợp xuất hiện khối u lành tính hoặc ác tính, cần ngừng vĩnh viễn việc điều trị bằng mecasermin và tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa.

  • Thông báo cho bệnh nhân hoặc người đại diện về nguy cơ xuất hiện khối u và các dấu hiệu cần tham khảo ý kiến bác sĩ (tổn thương da, tăng trưởng quá mức hoặc bất kỳ triệu chứng bất thường nào khác).

Thông tin cho bố mẹ của trẻ được điều trị bằng mecasermin:

  • Luôn sử dụng thuốc với liều đã được quy định cho trẻ.

  • Nếu có tổn thương da, tăng trưởng quá mức hoặc bất kỳ triệu chứng bất thường nào khác, cần liên hệ với bác sĩ điều trị và sau đó tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa nếu cần thiết.

  • Không gián đoạn sử dụng thuốc ở trẻ khi chưa trao đổi trước với bác sĩ điều trị.

  • Nếu có bất kỳ câu hỏi nào, cần gặp bác sĩ hoặc dược sĩ phụ trách để được tư vấn.

Điểm tin cảnh giác dược 12/03/2020

Montelukast

Thuốc điều trị hen phế quản và dị ứng

Cơ quan quản lý Thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) tăng cường cảnh báo đặc biệt về tác dụng không mong muốn trên tâm thần của montelukast đồng thời yêu cầu giới hạn sử dụng đối với viêm mũi dị ứng.

Thông tin kê đơn montelukast đã có cảnh báo về tác dụng phụ trên tâm thần, gồm có ý định tự tử hoặc hành vi tự tử, tuy nhiên, nhiều cán bộ y tế và bệnh nhân/người chăm không có nhận thức về nguy cơ trên. FDA quyết định cần tăng cường cảnh báo sau khi thực hiện cuộc rà soát mở rộng trên các thông tin sẵn có và lấy ý kiến một nhóm các chuyên gia bên ngoài, và cơ quan này đã xác định cần bổ sung một cảnh báo đặc biệt về thay đổi tâm thần và hành vi nghiêm trọng liên quan đến sử dụng monntelukast.

Khuyến cáo cán bộ y tế:

  • Khai thác tiền sử bệnh lý tâm thần của bệnh nhân trước khi điều trị.

  • Cân nhắc các nguy cơ và lợi ích khi quyết định kê đơn hoặc tiếp tục cho bệnh nhân sử dụng thuốc.

  • Khuyến cáo bệnh nhân về biến cố tâm thần kinh khi kê đơn montelukast.

  • Khuyến khích bệnh nhân và cha mẹ/người chăm sóc đọc Hướng dẫn dùng thuốc mà họ nhận được khi được kê đơn montelukast. Hướng dẫn này giải thích các nguy cơ an toàn thuốc và cung cấp các thông tin quan trọng khác.

  • Theo dõi các dấu hiệu tâm thần kinh trên tất cả các bệnh nhân được điều trị bằng montelukast.

  • Khuyến cáo các bệnh nhân và người chăm sóc bệnh nhân nên ngừng thuốc và liên hệ với cán bộ y tế ngay nếu có thay đổi hành vi hoặc các triệu chứng tâm thần kinh mới, hành vi hoặc ý định tự tử xảy ra.

Khuyến cáo người bệnh: Nên trao đổi với cán bộ y tế về

  • Các lợi ích và nguy cơ của montelukast, vì sẵn có nhiều lựa chọn thay thế điều trị dị ứng an toàn và hiệu quả.

  • Tiền sử bệnh lý tâm thần trước khi khởi đầu điều trị.

Điểm tin cảnh giác dược 16/03/2020

Metformin

Thuốc điều trị đái tháo đường type 2.

Ngày 12/03/2020, Cơ quan quản lý Y tế Canada thông báo thu hồi chế phẩm Jamp-Metformin

Sản phẩm phải thu hồi là các lô thuốc viên nén Jamp-Metformin 500 mg và viên nén Jamp-Metformin 850 mg do có thể chứa NDMA vượt ngưỡng cho phép. Các lô thuốc này được phân phối bởi JAMP Pharma Corporation.

Điểm tin cảnh giác dược 17/03/2020

Ulipristal

Thuốc điều trị u xơ tử cung/Thuốc tránh thai khẩn cấp

Ngày 13/03/2020, cơ quan quản lý Dược phẩm Châu Âu (EMA) thông báo tạm ngừng sử dụng ulipristal điều trị u xơ tử cung trong khi EMA rà soát nguy cơ tổn thương gan do thuốc gây ra.

Ủy ban an toàn thuốc của Châu Âu (PRAC) vừa khuyến cáo phụ nữ ngừng sử dụng thuốc ulipristal acetate 5 mg (Esmya và các thuốc generic) để điều trị u xơ tử cung trong khi cơ quan này đang rà soát độ an toàn của thuốc. Không sử dụng thuốc cho bệnh nhân mới, do thuốc bị tạm thời đình chỉ trên toàn Châu Âu khi đang thực hiện cuộc rà soát.

EMA bắt đầu cuộc rà soát này kể từ yêu cầu của Ủy ban Châu Âu theo dõi các trường hợp tổn thương gan gần đây. Các trường hợp tổn thương gan được báo cáo, bao gồm 5 trường hợp cần ghép gan, trên tổng số 900.000 bệnh nhân được điều trị u xơ bằng ulipristal kể từ khi thuốc được lưu hành vào năm 2012.

Ulipristal acetate cũng được cấp phép như thuốc dùng đơn liều trong tránh thai khẩn cấp. Cuộc rà soát này không ảnh hưởng đến chế phẩm ulipristal acetate đơn liều tránh thai khẩn cấp (ellaOne và các thuốc generic) và không có quan ngại về nguy cơ tổn thương gan của các thuốc này.

Thông tin dành cho bệnh nhân

  • Nếu bệnh nhân đang sử dụng ulipristal aectate để điều trị u xơ tử cung, nên ngừng sử dụng và trao đổi với với bác sĩ điều trị để được khuyến cáo điều trị thay thế.

  • Trao đổi với bác sĩ hoặc dược sĩ nếu có băn khoăn về vấn đề điều trị.

  • Trao đổi với bác sĩ điều trị ngay nếu xuất hiện triệu chứng tổn thương gan như mệt mỏi, chán ăn, đau bụng, vàng da, nước tiểu sẫm màu, buồn nôn hoặc nôn mửa.

  • Không có vấn đề về tổn thương gan với các chế phẩm chứa ulipristal acetate đơn liều dùng để tránh thai khẩn cấp (ellaOne và các thuốc generic).

Thông tin dành cho cán bộ y tế

  • Trao đổi với bệnh nhân đang điều trị u xơ tử cung bằng thuốc ulipristal acetate ngay và ngừng thuốc cho bệnh nhân. Cân nhắc lựa chọn điều trị phù hợp khác

  • Khuyến cáo bệnh nhân báo cáo ngày các dấu hiệu hoặc triệu chứng tổn thương gan.

  • Cần xét nghiệm chức năng gan mỗi 2-4 tuần sau khi ngừng thuốc theo hướng dẫn trong Tờ thông tin sản phẩm.

  • Không khởi đầu điều trị u xơ tử cung cho tất cả các bệnh nhân mới bằng ulipristal acetate.

Điểm tin cảnh giác dược 20/03/2020

Diosmetite

Thuốc điều trị các triệu chứng trong tiêu chảy.

Cơ quan Khoa học Y tế Singapore (HSA): Giới hạn sử dụng thuốc chứa diosmectite trong điều trị tiêu chảy cấp.

Các kim loại nặng như chì có mặt trong đất tự nhiên và có thể có một lượng nhỏ trong thức ăn và nước uống. Diosmectite tự nhiên – đất sét trong Smecta – cũng có chứa một lượng nhỏ chì. Theo khuyến cáo quốc tế, Ipsen (công ty sở hữu Smecta®) đã thực hiện nghiên cứu lâm sàng mà kết quả chỉ ra không ghi nhận bằng chứng về nguy cơ gặp phản ứng có hại liên quan đến chì ở người lớn sử dụng Smecta điều trị tiêu chảy mạn tính trong 5 tuần và trên quần thể bệnh nhi với thời gian điều trị tới 7 ngày.

Tuy nhiên, chưa có dữ liệu về độ an toàn cho trẻ dưới 2 tuổi, PNCT và PNCCB. Để đảm bảo an toàn, Ipsen quyết định giới hạn chỉ định Smecta: thuốc chỉ được dùng để điều trị tiêu chảy cấp cho người lớn và trẻ từ 2 tuổi trở lên, KHÔNG khuyến cáo sử dụng cho PNCT và PNCCB.

Giới hạn tương tự đã được Cơ quan quản lý Dược phẩm Pháp (ANSM) đưa ra từ tháng 03/2019.

Điểm tin cảnh giác dược 19 và 24/03/2020

NSAIDs

Cơ quan Quản lý Dược phẩm Châu Âu (EMA), cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) và cơ quan Quản lý Y tế Canada (HealthCanada): Khuyến cáo về sử dụng NSAIDs trong điều trị COVID-19

Theo EMA, FDA và Health Canada, tại thời điểm này chưa nhận thấy có bằng chứng khoa học nào chứng minh mối liên quan giữa việc sử dụng NSAIDs và tình trạng bệnh viêm phổi cấp do COVID-19 nặng hơn. Thông tin sản phẩm của nhiều thuốc NSAIDs đã đưa ra các cảnh báo rằng tác dụng chống viêm có thể che khuất dấu hiệu triệu chứng nhiễm trùng tiến triển nặng hơn.

Khi bắt đầu điều trị triệu chứng sốt hoặc đau ở bệnh nhân nhiễm COVID-19, bệnh nhân và các cán bộ y tế nên cân nhắc tất cả các lựa chọn điều trị, trong đó có paracetamol và các thuốc NSAIDs. Mỗi thuốc có lợi ích và nguy cơ nhất định được ghi nhận trong thông tin sản phẩm và cần được xem xét cùng với các Hướng dẫn điều trị, hầu hết đều khuyến cáo sử dụng paracetamol như lựa chọn khởi đầu điều trị sốt và đau.

Theo các Hướng dẫn điều trị từng quốc gia tại Châu Âu, bệnh nhân và cán bộ y tế có thể tiếp tục sử dụng NSAID như thông tin sản phẩm đã được phê duyệt. Khuyến cáo hiện tại gồm có sử dụng các thuốc này với liều thấp nhất có hiệu quả trong thời gian ngắn nhất. Hiện tại không có lý do gì để bệnh nhân gián đoạn sử dụng ibuprofen. Điều này đặc biệt quan trọng với những bệnh nhân sử dụng ibuprofen hoặc các thuốc NSAIDs khác để điều trị bệnh mạn tính.

Điểm tin cảnh giác dược 27/03/2020

Vancomycin

Theo dõi nồng độ vancomycin trong điều trị nhiễm khuẩn nặng do MRSA: Hướng dẫn đồng thuận cập nhật năm 2020

Một số điểm thay đổi quan trọng trong hướng dẫn năm 2020 so với năm 2009 bao gồm:

  • Việc theo dõi nồng độ đáy vancomycin với đích 15 - 20 mg/L không còn được khuyến cáo do không còn đủ bằng chứng cũng như dựa trên dữ liệu hiệu quả - độc tính trên thận ở bệnh nhân bị nhiễm trùng nghiêm trọng do MRSA. Thay vào đó, cần hiệu chỉnh liều dựa trên AUC/MIC mục tiêu từ 400 - 600 mg.h/L(A-II).

-Truyền tĩnh mạch liên tục (continuous infusion) có thể được sử dụng thay thế khi chế độ truyền ngắt quãng (intermittent infusion) không thể đạt được mục tiêu AUC (B-II) với các ưu điểm về thời gian lấy mẫu, hiệu chỉnh liều thông qua tốc độ truyền. Dựa trên dữ liệu hiện có, trên bệnh nhân nặng có thể cân nhắc liều nạp từ 15 - 20 mg/kg, sau đó là liều duy trì truyền tĩnh mạch liên tục hàng ngày từ 30 - 40 mg/kg (MAX 60 mg/kg) để đạt nồng độ đích ở trạng thái ổn định từ 20 - 25 mg/L (B-II).

  • Để nhanh chóng đạt được nồng độ mục tiêu ở bệnh nhân nặng có nghi ngờ hoặc xác định nhiễm trùng MRSA nặng, có thể cân nhắc dùng liều nạp từ 20 - 35 mg/kg truyền ngắt quãng (B-II), MAX 3000 mg.

  • Ngoài ra, khuyến cáo mới đã có thêm các khuyến cáo trên các đối tượng bệnh nhân đặc biệt: bệnh nhân nhi, bệnh nhân béo phì và bệnh nhân bệnh thận và bệnh nhân sử dụng liệu pháp thay thế thận.

Đơn vị TTT-DLS sẽ có bài chuyên đề riêng về hướng dẫn cập nhật này.

Điểm tin cảnh giác dược 30/03/2020

Penicilin

Dị ứng penicilin ở phụ nữ có thai

Penicilin và kháng sinh beta-lactam khác là kháng sinh đầu tay để dự phòng và điều trị nhiễm khuẩn trong thai kỳ. Hầu hết những người tin rằng họ dị ứng với penicilin thực ra không phải dị ứng thật sự. Các bệnh nhân sau khi được báo cáo dị ứng penicilin thường được kê kháng sinh khác không phải -lactam, dẫn đến gia tăng thất bại điều trị, tình trạng vi khuẩn đề kháng kháng sinh, tác dụng không mong muốn nghiêm trọng, và nhiễm Clostridium difficile. Bệnh nhân với tiền sử dị ứng penicilin gia tăng các nguy cơ khi sinh mổ, biến chứng vết mổ sau sinh, và thời gian nằm viện lâu hơn.

Việc đánh giá dị ứng penicilin bắt đầu bằng việc rà soát tiền sử dị ứng của bệnh nhân.

  • Triệu chứng nguy cơ thấp: đau đầu, buồn nôn, nôn, ngứa. Penicilin có thể được thử lại nếu có chỉ định.

  • Triệu chứng trung bình: ban đỏ, mày đay. Test da được thực hiện trong 3 tháng cuối thai kỳ bởi chuyên gia dị ứng. Việc kiểm tra này tỏ ra an toàn trong thai kỳ và mất ít hơn 2 giờ. Nếu kết quả là âm tính, một liều đầy đủ penicilin sẽ được dùng dưới sự giám sát cẩn thận để xác nhận kết quả.

  • Triệu chứng nặng: phản vệ, phản ứng có hại trên da nghiêm trọng. Việc đánh giá KHÔNG được khuyến cáo trong thai kỳ.

(Tham khảo thêm QT.25.DUOC – Quy trình test huyết thanh, kháng sinh – version 3 ngày 03/05/2018 của BVBNĐ)

Điểm tin cảnh giác dược 31/03/2020

Hydroxy-chloroquin

Thuốc điều trị sốt rét và một số bệnh tự miễn

COVID-19 và hydroxychloroquin: khuyến cáo của Thượng Hội đồng Y khoa Pháp (HCSP) Theo HCSP, mặc dù mức độ bằng chứng thấp, việc sử dụng hydroxychloroquin (biệt dược PLAQUENIL viên nén 200 mg) có thể được áp dụng: - Các bệnh nhân điều trị nội trú có triệu chứng nặng của COVID-19; - Được hội chẩn y khoa để đưa ra quyết định; - Trong các nghiên cứu thuần tập của Pháp về điều trị COVID-19 để tăng cường các dữ liệu sẵn có về hiệu quả và an toàn của thuốc.

Hydroxychloroquin hiện KHÔNG được khuyến cáo cho các trường hợp sau:

  • Điều trị dự phòng COVID-19.

  • Ở những bệnh nhân gần như không xuất hiện triệu chứng hoặc có nhiễm trùng đường hô hấp dưới không biến chứng. Theo dõi bệnh nhân COVID-19 được điều trị bằng hydroxychloroquin về:

  • Định lượng nồng độ thuốc trong huyết tương.

  • Các bất thường trên tim.

HCSP lưu ý:

  • Liều tối đa của hydroxychloroquin được phê duyệt cho người lớn là 600 mg/ngày.

  • Hydroxychloroquin có thể gây ra các tác dụng không mong muốn nghiêm trọng (Nguy cơ hạ đường huyết nặng, nhịp tim bất thường hoặc không đều, rối loạn tiêu hóa (đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy, nôn), nhức đầu, nhìn mờ, phát ban)

ACEI và ARB

Thuốc điều trị tăng huyết áp

Thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACEI), thuốc ức chế thụ thể angiotensin (ARB) và COVID-19

Mối liên quan giữa bệnh tăng huyết áp và sự gia tăng tỉ lệ mắc bệnh và tử vong do COVID-19 đã được quan sát trong một số nghiên cứu dịch tễ học đầu tiên mô tả các đặc điểm của dịch COVID-19 tại Trung Quốc. Vẫn chưa rõ mối liên quan này có liên quan đến cơ chế bệnh sinh của tăng huyết áp hay liên quan đến các bệnh lý mắc kèm hoặc biện pháp điều trị khác áp dụng trên bệnh nhân. Mối liên quan này có thể bị gây nhiễu bởi việc sử dụng thuốc điều trị tăng huyết áp đặc hiệu bao gồm: thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACEI) và thuốc ức chế thụ thể angiotensin (ARB).

Mối liên quan trên được dấy lên vì sự liên quan đã được biết đến giữa men chuyển angiotensin 2 (ACE2 với virus SARS-CoV-2. ACE2 đã được chứng minh là một đồng thụ thể cho sự xâm nhập của virus SARS-CoV-2 và ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy enzym này có vai trò kéo dài thời gian gây bệnh trong bệnh sinh của COVID-19.

Một số chuyên gia lo ngại rằng ACEI và ARB làm tăng gấp đôi mức độ nghiêm trọng và tỉ lệ tử vong của COVID-19, do ACE2 hoạt động như một carboxypeptidase và không bị ức chế bởi các thuốc ACEI được kê đơn trên lâm sàng. Ngoài ra, các chuyên gia cũng lo ngại việc sử dụng ACEI và ARB sẽ có thể làm tăng biểu hiện của ACE2, tăng tính nhạy cảm của bệnh nhân với sự xâm nhập và nhân lên của virus trong tế bào chủ. Tác động của sự biểu hiện ACE2 trong cơ chế bệnh sinh và tỉ lệ tử vong của COVID-19 vẫn chưa được biết đến rõ ràng. Tuy nhiên, một số mô hình gây tổn thương phổi khác nhau đã chỉ ra vai trò bảo vệ của ACE2 và angiotensin.

Mặc dù không có đầy đủ bằng chứng, nhiều ý kiến ủng hộ cho cả việc sử dụng và ngừng sử dụng ACEI, ARB, hoặc cả hai trong quá trình điều trị COVID-19 ở bệnh nhân tăng huyết áp. Điều này đã làm cho một số cá nhân có xu hướng thay đổi các loại thuốc điều trị tăng huyết áp của họ mặc dù họ thấy không chắc chắn và có thể dẫn tới tăng nguy cơ xảy ra các sai sót y khoa.

Do đó, Hội đồng Tăng huyết áp của Hội Tim mạch Châu Âu, Hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA), Hội Suy tim Hoa Kỳ (HFSA), và American College of Cardiology (ACC) cùng đưa ra tuyên bố chung khuyến khích các bệnh nhân, trong thời gian diễn ra dịch COVID-19, nên tiếp tục sử dụng các thuốc ACEI và ARB theo đơn kê do không có bằng chứng lâm sàng hay khoa học nào cho thấy nên ngừng điều trị bằng ACEI hoặc ARB do mắc COVID-19 và chỉ thay đổi thuốc sau khi được đánh giá và cân nhắc đầy đủ bởi chuyên gia.