Chẩn đoán DIC khi lâm sàng có nghi ngờ (bệnh cảnh phù hợp, rối loạn đông cầm máu, huyết khối, chảy máu) và các xét nghiệm.
Điểm | Ý nghĩa |
---|---|
< 5 | Không gợi ý DIC rõ ràng, lặp lại đánh giá sau 1 - 2 ngày. |
≥ 5 | Phù hợp với DIC, đánh giá lại hằng ngày. |
Điểm DIC được phát triển bởi tiểu ban Hiệp hội Huyết khối và Cầm máu Quốc tế (ISTH) của Ủy ban Khoa học và Tiêu chuẩn hóa (SCC) trên DIC ( đề xuất bởi Taylor 2001 ).
LƯU Ý: Giá trị tăng ở ngưỡng trung bình của D-Dimer có thể thay đổi tùy nguồn tài liệu: có thể từ 0,5 - 5 (mcg/mL), tương đương 1 - 10 lần ULN, tương ứng với 2 điểm. Và giá trị tăng nghiêm trọng (> 10 lần) của D-Dimer > 5 (mcg/mL) tương ứng với 3 điểm. Giá trị bình thường của D-Dimer cũng có thể thay đổi theo tuổi, ở những bệnh nhân > 50 tuổi thì giá trị ước tính ngưỡng trên bình thường của D-Dimer bằng tuổi x 10. Ngoài ra, D-Dimer cũng tăng trong các bệnh nhiễm trùng, chấn thương, phẫu thuật, ung thư, nhồi máu cơ tim, đột quỵ não,...
DIC là một rối loạn đông máu do tiêu thụ các yếu tố đông máu và tiêu fibrin và các chất ức chế các yếu tố này làm mất cân bằng quá trình điều hòa giữa đông máu và tan cục máu đông, dẫn đến các cục máu đông được hình thành quá mức trong các mạch máu nhỏ, vừa gây nghẽn mạch do huyết khối và cuối cùng là tổn thương cơ quan đích. Các yếu tố đông máu bị tiêu hao nhanh nhưng không bù trừ thỏa đáng dẫn đến tình trạng chảy máu.
Tình trạng tổn thương mô, u tân sinh, nhiễm trùng huyết hoặc cấp cứu sản khoa có thể dẫn đến DIC
Các bệnh lý thường kết hợp với DICTắc mạch do huyết khối, xuất huyết và suy tạng là biểu hiện thường gặp.